Việt Nam Xuất Khẩu Gạo Đứng Thứ Mấy Trên Thế Giới 2022 Pdf Download

Việt Nam Xuất Khẩu Gạo Đứng Thứ Mấy Trên Thế Giới 2022 Pdf Download

Xuất khẩu cà phê khoảng một thập kỷ trước trị giá 20 tỷ USD, đến nay nó đã lên đến 465,9 tỷ USD (theo GlobeNewswire). Mặc dù đại dịch toàn

Xuất khẩu cà phê khoảng một thập kỷ trước trị giá 20 tỷ USD, đến nay nó đã lên đến 465,9 tỷ USD (theo GlobeNewswire). Mặc dù đại dịch toàn

Brazil – Xuất khẩu 2,680,515 tấn cà phê

Brazil là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới hơn 150 năm. Vào đầu thế kỷ 20, quốc gia này chiếm gần 80% lượng cà phê xuất khẩu trên thế giới. Hiện tại, tổng kim ngạch xuất khẩu bằng một phần ba sản lượng còn lại của thế giới. Điều này không quá ngạc nhiên khi Brazil sở hữu vị trí địa lý thuận lợi để trồng cà phê Arabica và Robusta. Thêm vào đó, cà phê Brazil nổi tiếng với vị kem đặc, độ chua thấp, hương socola và caramel giàu vị đắng nhẹ tinh tế. Với hơn 20,000 đồn điền cà phê trải rộng trên 10.000 dặm vuông, Brazil đang vượt xa các quốc gia khác.

Uganda – Xuất khẩu 209,325 tấn cà phê

Một quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu khác là bang Uganda của châu Phi. Chủ yếu được biết đến với cà phê Robusta, quốc gia này cũng có nhiều loại Arabica. Hạt cà phê Uganda được người dân bản địa trồng sâu trong các khu rừng mưa phía bắc Lira và Gulu; các vùng phía đông của Mbale và Bugisu; các vùng trung tâm và tây nam của Jinja, Mukono, Kampala và Masaka, cũng như các vùng phía tây của Kasese, tây sông Nile, vùng và Mbarara. Hạt cà phê từ Uganda có độ chua giống rượu vang và hương socola.

Colombia – Xuất khẩu 754, 376 tấn cà phê

Columbia là nước xuất khẩu cà phê Ả Rập hàng đầu thế giới, đã sản xuất khoảng 11,5 triệu bao cà phê hàng năm. Khi Colombia bắt đầu xuất khẩu cà phê từ năm 1830, quốc gia này đã được khen ngợi có hạt cà phê ngon nhất thế giới. Những hạt cà phê được trồng ở độ cao 1500-2000 mét, có hương thơm béo ngậy và hương vị trái cây tinh tế. Ngoài ra, cà phê Colombia nổi tiếng với sự dịu nhẹ.

Peru – Xuất khẩu 346,466 tấn cà phê

Từ những năm 1700, cà phê đã được trồng ở khắp các vùng ở miền Bắc, vành đai miền Trung và miền Nam Peru. Giống như Honduras, phần lớn sản lượng cà phê ở Peru trước đây đều được người dân tiêu dùng là chính. Cà phê Peru có hai loại chính, được chia cùng với các đồn điền. Những loại được trồng ở vùng cao (đặc biệt là Andes) dào dạt hương vị hoa. Những cây ở vùng đồng bằng thường có thân trung bình với hương hoa và trái cây.

Ethiopia – Xuất khẩu 471,247 tấn cà phê

Cà phê không chỉ là một loại đồ uống đối với người dân Ethiopia mà còn là một phần văn hóa của họ. Đây là quê hương của cà phê Arabica ngay từ những năm 1600 trong thương mại Java. Ngoài ra, Ethiopia có hàng nghìn loại hạt cà phê, nhiều hương vị khác nhau. Tuy nhiên, ba loại chính được trồng là Shortberry, Mocha và Longberry. Cà phê Ethiopia nổi bật với hương hoa, hương vị socola, gia vị và rượu mạnh.

Mexico – Xuất khẩu 270,000 tấn cà phê

Mặc dù là người đến sau, ngành kinh doanh cà phê đang bùng nổ ở Mexico. Trong khi các đồn điền cà phê không được đưa vào sử dụng cho đến cuối thế kỷ 18 ở Veracruz, Mexico hiện là một trong những nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới. Loại cây này được trồng trên 16 bang ở Mexico. Mexico chủ yếu xuất khẩu cà phê Arabica chế biến ướt. Phần lớn cà phê được sử dụng để pha chế và cà phê rang đậm. Các loại bao gồm bourbon, caturra, maragogype và Mundo Novo.

Honduras – Xuất khẩu 475,042 tấn cà phê

Khí hậu ở Honduras tương tự như ở Brazil. Tuy nhiên, quốc gia này đã không trở thành nhà xuất khẩu cà phê toàn cầu cho đến gần đây. Trước khi trở thành một ông lớn trong ngành kinh doanh cà phê, hầu hết các sản phẩm cà phê của quốc gia đều được tiêu thụ tại địa phương. Cà phê chủ yếu được trồng ở các trang trại nhỏ trên núi được gọi là ‘Fincas’ ở độ cao từ 3600-5249 feet. Cà phê Honduras tỏa ra hương thơm dễ chịu của quả phỉ, vani, hoặc trái cây đỏ, tùy thuộc vào từng hương vị cụ thể.

Guatemala – Xuất khẩu 204,000 tấn cà phê

Nằm ở phía đông của Mexico và phía tây của Honduras, Guatemala cũng là một trong những quốc gia sản xuất cà phê lớn trên thế giới. Nước này là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất khắp Trung Mỹ trong thế kỷ 20 (trước khi bị Honduras vượt qua). Từ thế kỷ 19, xuất khẩu cà phê đã trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế đất nước.

Các vùng sản xuất cà phê trong nước là những vùng có khí hậu cận nhiệt đới ôn hòa. Những vùng này bao gồm Antigua, Atitlan, Cao nguyên Fraijanes, Cao nguyên Huehuetenango, Nuevo Oriente, Volcan San Marcos và Rainforest Coban. Hương vị cà phê Guatemala sẽ được xác định bởi vị trí của đồn điền. Loại được trồng ở Tây Nguyên có vị chua từ hoa và thường có vị cay hoặc vị socola. Những loài xuất thân từ các khu vực núi sẽ ít có tính axit vì chúng đã tiếp xúc với vùng biển Caribe hoặc Thái Bình Dương.

Và đó là những thông tin nhằm giải đáp cho câu hỏi “cà phê Việt Nam đứng thứ mấy trên thế giới?”. Có thể thấy cà phê Việt Nam vẫn đang ở vị trí thứ hai trên thế giới. Thế nhưng, nếu chúng ta không tận dụng lợi thế đó cùng với những ưu đãi từ Hiệp định thương mại EVFTA, UKVFTA sẽ dễ dàng bị các đối thủ khác vượt mặt.

Số liệu trong bài viết được lấy từ Alibaba.com

Tại Việt Nam, cây chè đã trở thành cây công nghiệp phát triển ổn định, mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo việc làm và thu nhập cho nhiều lao động. Cây chè được phát triển chủ yếu ở khu vực Trung du và miền núi phía Bắc với khoảng 70% diện tích trồng chè cả nước; kế đến là vùng Tây Nguyên với khoảng 19%; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung có diện tích chè chiếm 7,0% và khu vực đồng bằng Bắc bộ 4,0%. Một số địa phương có diện tích chè lớn, như: Thái Nguyên (22,3 nghìn ha), Hà Giang (21,5 nghìn ha), Phú Thọ (16,1 nghìn ha), Lâm Đồng (10,8 nghìn ha)…

Hiện nay, Việt Nam có trên 170 giống chè các loại đảm bảo chất lượng và cho năng suất cao, với các hương vị đặc biệt được thế giới ưa chuộng, như: Chè shan, PH1, LDP1, LDP2, PT14… và các giống chè nhập nội như PT95, Kim Tuyên, Bát Tiên, Tứ Quý Xuân… Trong đó, chè shan là giống chè quý, được phát triển lâu đời tại một số địa phương khu vực phía Bắc như: Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên… Với khoảng trên 24% tổng diện tích trồng chè cả nước. Chè shan bao gồm các giống: Chè shan công nghiệp, shan vùng cao và shan đầu dòng. Hiện những rừng chè shan cổ thụ với nhiều cây hàng trăm năm tuổi của Việt Nam đang cho sản phẩm có nhiều đặc tính quý và là nguyên liệu không thể thiếu để sản xuất chè sạch, chè đặc sản, cũng như các sản phẩm chè chế biến có giá trị gia tăng cao.

Theo đánh giá của Hiệp hội chè Việt Nam, những năm gần đây, năng suất và sản lượng chè của Việt Nam liên tục tăng nhờ sự chuyển biến tích cực về giống, kỹ thuật canh tác và tổ chức sản xuất. Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, chính sách đã được các cấp từ Trung ương đến địa phương ban hành nhằm phát triển sản xuất và tiêu thụ chè. Đặc biệt đã có nhiều giải pháp đồng bộ được áp dụng trong vấn đề bảo đảm an toàn thực phẩm trên sản phẩm chè đã cho những kết quả khả quan.

Các thị trường chính của sản phẩm chè Việt Nam là Pakistan, Trung Quốc, Nga và Indonesia… Trong đó, thị trường Trung Quốc, chiếm 12-15% khối lượng chè xuất khẩu của Việt Nam. Các sản phẩm làm từ cây chè đang ngày càng đa dạng và phong phú, được đảm bảo sản lượng và chất lượng, phục vụ cho nhu cầu người tiêu dùng và được tiêu thụ tại nhiều thị trường trong và ngoài nước. Một số thương hiệu chè đang được ưa chuộng như: Chè sao lăn, chè xanh, chè Ô long, chè Hương, chè thảo dược…

Từ khi bùng dịch COVID-19 trong năm 2020 đến nay, mặc dù phải đối mặt với những diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh song chè là một trong những sản phẩm duy trì được sản xuất, không bị đứt gãy trong quá trình xuất khẩu, tăng trưởng xuất khẩu chè của Việt Nam sang nhiều thị trường chính được đảm bảo ổn định. Theo đó, năm 2020 xuất khẩu chè ước đạt 134.964 tấn, trị giá 217,7 triệu USD, với giá 1.613 USD/tấn.

Bước sang năm 2021, theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường Nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), khối lượng xuất khẩu chè tháng 3/2021 ước đạt 10 nghìn tấn với giá trị đạt 16 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 3 tháng đầu năm 2021 đạt 26 nghìn tấn và 41 triệu USD, giảm 3,1% về khối lượng nhưng tăng 6,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020.

Hiệp hội chè Việt Nam cũng nhận định, năm 2020 ngành chè gặp rất nhiều khó khăn, khi các hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp đã ký kết nhưng do dịch COVID -19 khiến nhiều hợp đồng bị giãn, hoãn, thậm chí một số hợp đồng còn bị yêu cầu giảm giá, trong khi đó, các hợp đồng mới gần như không có. Đáng chú ý, vấn đề chi phí vận tải cũng gây khó khăn cho nhiều ngành hàng nông sản, trong đó có ngành chè. Mọi năm, chi phí vận tải chỉ khoảng 700 – 900 USD/container thì năm nay lên tới 2.700 – 3.000 USD/container, cao gấp 3 lần, tạo sức ép rất lớn về chi phí, trong khi giá chè lại giảm.